Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2015

Bờ xanh của Huế

Nhang Trầm Huế 0946666419

Ba mươi năm xa Huế, về lại, Huế vẫn còn xanh. Trong lúc nhiều nơi khác thì có nơi đã đổi trắng hay hóa vàng. Đổi trắng, vì quá nhiều tòa nhà vôi gạch mới mọc. Và, vàng đi vì khuynh hướng đô thị hóa “diêm dúa” nửa vời.
Bờ xanh sông Hương
Con sông xanh mát thường trôi chảy êm đềm là linh hồn của thành phố. Với Huế, sông Hương không phải chỉ là linh hồn mà còn là thể phách tinh anh của thành phố. Núi ấy phải có sông ấy. Sông ấy phải có núi ấy và bầu trời xuân xanh, hạ trắng, thu vàng, đông tím... mới hội đủ đường nét tạo hình cho một tác phẩm tâm ảnh trong lòng người đi. Phía nam và phía bắc, Đà Nẵng và Quảng Trị là hai thành phố đẹp và có thể thay thành phố cũ ra thành phố mới như tái sinh. Đà Nẵng một ngày nào đó có thể đẹp như Hồng Kông. Quảng Trị - Đông Hà có thể đẹp như phố mới. Nhưng Huế thì khó mà có được một sự thay hình đổi dạng tương tự vì Huế đã định hình thành một biểu tượng: Huế tự làm nên Huế mất rồi! Một cặp phạm trù mâu thuẫn và sinh khắc đã làm nên xứ Huế. Ngay điều kiện thiên nhiên và thời tiết cay nghiệt “Tháng tám nắng nám trái bưởi. Giêng hai (lạnh tới mức) cắn tay không ra máu” cũng đã vẽ nên một cảm nhận sinh khắc ngoài tầm thay đổi. Rồi tới cảnh một xứ Thần kinh miên mật đến thế mà Huế thơ, Huế mộng; nhưng Huế vẫn “tộng bộng” hai đầu. “Tộng bộng” là một biểu tượng cởi mở thông thoáng, một phong thái tiếp nhận cái mới không cần điều kiện. Nhưng có ai quên được rằng, những người Huế khai phá tiền phong thời chúa Nguyễn Hoàng tiến về Nam là đoàn lữ khách “tới nơi đây đất nước lạ lùng; con chim tê kêu cũng sợ, con cá nớ vẫy vùng cũng run”. Phải chăng vì thế mà cái “đẹp… dễ sợ!” thì chỉ Huế mới có. Huế đã mang số mệnh hy sinh chính mình cho nghĩa lớn của Huyền Trân. Tên gọi cụt ngủn: “Huế, Sịa, Nong, Truồi, Chuồn, Cồn, Hương, Bồ, Dinh, Trò, Độn…” đã không làm cho tình Huế ngắn đi và đất Huế hẹp lại mà cảm xúc mãi dài ra quá tầm một đời người ngắn ngủi. Có một lối sống, lối nghĩ, lối hành xử theo một phong cách riêng gọi là “văn hoá Huế”. Cũng như có một lối gọi tên, phát âm và diễn đạt riêng gọi là “tiếng Huế” hay phương ngữ Huế. Huế toàn ròn không thể thay bằng một Huế khác như người Việt “Huế xa”… mô đó; không thể thay bằng một người Tây hay người Mỹ trở về! Bà mẹ quê lưng còng tóc bạc, lụm khụm hái mớ rau tập tàng luộc cho con ăn không thể thay bằng một hình ảnh “Amy” mô đó… mặc váy đầm, tóc mi-nhon…
Hơn nửa đời sống với Huế, tôi thường tự hào là mình đã thuộc lòng... từng cái ổ gà trên đường qua Đập Đá, đường về An Cựu, đường xuống Bãi Dâu, đường tới Bao Vinh, đường vô Mang Cá, đường ra An Hòa… hay nhớ rõ màu rêu từng mùa trên những bức tường vôi gạch cổ thành. Thế mà nay về lại, vẫn bị lạc đường hỏi lối loanh quanh. Nghĩa là Huế có mở rộng. Huế thêm nhiều con đường và phố xá lên theo.
Hình như càng ngày, văn minh nhân loại càng gắn bó tha thiết với những dòng sông. Như châu Mỹ trẻ trung hơn châu Âu nên những con sông không bị biến thành những lạch nước quặn mình làm kiểng cho những công trình xây dựng lâu đài. Những dòng trường giang như Mississippi, American, Colorado ở Mỹ, Wheaton ở Canada vẫn còn là những bờ xanh lồng bóng nước như hôm nay. Trong khi đó, những con sông nổi tiếng một thời ở châu Âu, vốn đã lên lão từ thời trung cổ, như sông Seine ở Paris, sông Thames ở Luân Đôn, sông Brisbane ở Úc, sông Danube ở Đức… đã bị những cơn lũ đô thị hóa biến thành những dòng kênh quặn mình giữa hai bờ thành lũy bê tông và cao ốc. Hy vọng mãi sau nầy rằng, mai tê cô Thắm con nhà Huế có về làng, dẫu có lỡ để cho “hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều” thì cũng vẫn còn thấp thoáng đâu đó đôi nét mặn mà của cô gái chân quê.
Dẫu có đi khắp năm đồng bảy đội, tuổi già trở về Huế, vẫn thấy Huế đẹp với những bờ xanh: Bờ sông, bờ suối, bờ ao, bờ hồ, bờ rào, bờ cỏ… Dòng sông Hương xa tít tắp có thể nhìn thấy trong tầm mắt từ đồi Vọng Cảnh, qua chùa Linh Mụ, chạy dọc theo thành phố, rẽ về Vỹ Dạ, qua ngã ba Sình trước khi xuôi về biển. Hai bên bờ sông vẫn còn xanh mướt. Dòng nước xanh, lác đác lục bình, đôi cụm lau lách hoang dã vẫn còn thấy nhau và những con đò xuôi ngược. Sông An Cựu, sông Bồ, sông Đào, hồ Ngự… vẫn còn bờ xanh với mùa xuân và dây leo đong đưa với mùa hạ. Nếu Huế mất những bờ xanh, làng tôi mất những bờ cây dại dọc sông Bồ thân ái, có lẽ tôi sẽ mất đi những hoài niệm một thời nhưng vẫn còn kéo dài và khắng khít của ngày xưa và bây giờ đã trên 60 năm. Và, trong tâm thức của những người trên 60 tuổi như tôi, đã sống nửa đời ở Huế và một nửa ở quê người, khái niệm về quê hương không còn thuần nhất như xưa. Bạn bè sống một đời ở Huế có lẽ khó tình chia sẻ nỗi niềm phân chia trong lòng người có hai bến bờ để tới. Tôi có Quê Mẹ và Quê Người. Trong một trạng thái tâm lý “dùng dằng nửa ở nửa về” như thế, những bờ xanh của Huế đã dang tay đón tôi lại. Sự cuốn hút của thiên nhiên đầy tâm cảm là một sáng tạo tuyệt vời của tình yêu cuộc sống.
Mùa xuân năm nay, chúng tôi muốn làm một cuộc du lịch “tùy duyên”. Tùy duyên trong du lịch có nghĩa, lấy vui làm chính. Còn đi đâu cũng được, miễn sao tìm được thú vị và an lạc trên mỗi bước đi. Lần này “tùy duyên về Huế”, trong lứa tuổi về chiều ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp, chúng tôi thường đùa rằng, may thì gặp duyên lành, không may thì gặp duyên chướng.
Lần này tôi về Huế, được gặp lại những người quen, bạn bè ở Huế và từ Pháp, Mỹ, Úc, Canada cùng từ nhiều nơi trong nước “ghé Huế mùa Xuân cho khỏi nóng”. Từ những năm trước, nhiều anh chị em gốc Huế sống xa quê tự động ngồi lại với nhau và góp tay nhau thành một nhóm sinh hoạt từ thiện và văn nghệ, văn hóa Huế gọi là “Huế Xa”. Anh chị em chỉ có một tấm lòng chung là: “Huế Xa mà không xa Huế.”
Chúng tôi ở lại Huế lâu hơn vì được sống với bà con, bạn bè trong màu xanh mùa Xuân tươi mát của Huế. Buổi trưa đi trên Cầu Mới, nhìn về phía cầu Trường Tiền và cầu Bạch Hổ còn ẩn hiện trong màn sương mỏng và nắng mơ phai đầy ẩn dấu như người con gái Huế khi chưa biết “phía bên tê”. Chao ơi là đẹp!
Nấn ná ở với Huế lâu lắm cũng chỉ tới ba tuần. Tôi thích về làng ra sau vườn hái rau tươi luộc chấm tương ngon như ngày còn mẹ. Lên thành phố, Huế vẫn còn dáng vẻ phố cổ của một thời; có nghĩa là chưa bị biến dạng sau những bóng dáng “đại gia” nửa quê, nửa tỉnh, nửa thị, nửa thành. Huế bây chừ cũng có những nơi cho bạn bè hẹn nhau đầy hương vị như Vỹ Dạ Xưa, Không Gian Xưa, Ven Đồi, Tân Hương Sen, Hoàng Trúc, cà phê Cây Đa Thành Nội, cà phê Thiên Đường.
Về lại Mỹ, nghe tin Huế “nóng như chảo bắp rang” mà tội Huế quá. Bên nầy trời Cali nhớ Huế, chúng tôi bỗng nhớ bạn bè, làng xóm, người thân quen. Chỉ nhớ lại lớp học nhỏ bé của chúng tôi ở trường Hàm Nghi Huế thôi cũng đủ hình ảnh để tính đời dâu biển. Gặp lại thầy xưa, bạn cũ tưởng như mới chiều hôm trước thôi mà hóa ra đã gần một đời đi qua.
Nhớ nhất là tiếng vọng thời gian “mới đó” thảng thốt mà ngậm ngùi của Huế: Mới đó mà đã 53 năm. Mới đó mà thằng Phúc, thằng Ni, thằng Phụ, thằng Lân, thằng Hòa... trong lớp đã ra đi hơn bốn chục năm rồi. Mới đó mà cả lớp đều đã lên hàng ông nội, ông ngoại. Mới đó mà thằng Viêm đã có chắt! Mới đó mà thế hệ những đứa học trò nhỏ chúng tôi ngày nào nay đã thành những “cụ” già gặp nhau với ít nhiều dáng vẻ lụm khụm và những nụ cười vui buồn vui bay tóc trắng. Và, mới đó mà những nàng dâu Hàm Nghi hương sắc một thời bây chừ hoá ra… đẹp lão. Các cụ chỉ còn biết cố níu lại thời gian bằng tiếng xưng hô “thằng, con, mi, tau…”, của những ngày xưa thân ái cho đã cái miệng (không răng) mà thôi.
Xa Huế, người ta có thể quên những mảnh sống vui buồn, những ngày sướng khổ trong một chặng đời nào đó. Nhưng mấy ai quên được những con đường quê hương đã từng quặn mình giữa bao tuồng ảo hóa của thời gian và cuộc thế trùng trùng dâu biển. Càng về già, tâm hồn lại trở thành chơn chất và thanh thản hơn để còn thương nhớ những bờ xanh của Huế. Mong Huế còn mãi những bờ xanh. Màu xanh sớm mai của Huế chính là nền đậm cho Màu tím Huế buổi chiều. Và màu sắc Huế cũng là nhịp cầu thế hệ nối tuổi già vàng phai và tuổi trẻ xanh mướt mượt mà; nối kẻ ra đi và người ở lại – cho dẫu là Huế Xa mà không xa Huế.
Huế - California
Trần Kiêm Đoàn (TTH)

Nghĩ về phố đêm

Nhang Trầm Huế 0946666419

Đã là một thành phố du lịch tất nhiên là một thành phố có nhiều hoạt động về đêm, ít ai đi du lịch để ngủ. Huế là một thành phố cổ kính, xưa nay Huế là một thành phố đi ngủ sớm. Điều này gợi lên bao suy nghĩ, trăn trở của nhiều người: làm sao để Huế không còn thành phố đi ngủ sớm. Tất nhiên đối với Huế những hoạt động xô bồ quá về đêm lại là không phù hợp.
Phố đêm Huế thu hút nhiều bạn trẻ. Ảnh: Hoài Phong
Những nỗ lực
Trong suy nghĩ đó, những năm lại đây, ở Huế mọc lên nhiều phòng trà, cà phê ca nhạc, quầy rượu...và đặc biệt là ca Huế trên sông Hương đã góp phần tạo nên một đời sống văn hóa tinh thần phong phú, lành mạnh, gây nhiều sự chú ý quan tâm của du khách. Ca Huế trên sông Hương vẫn còn nhiều hạn chế cần tiếp tục chấn chỉnh, nhưng không ai có thể phủ nhận ca Huế trên sông Hương đã có thương hiệu, hàng đêm có vài chục thuyền hoạt động với cả ngàn du khách tạo nên nét hoạt động văn hóa về đêm độc đáo, thú vị của Huế. Nghe ca Huế trên sông nơi nào cũng có nhưng có lẽ, ca Huế với không gian sông Hương và con người Huế bao giờ cũng có nét quyến rũ đặc biệt.
Cũng trong nỗ lực để Huế không còn là thành phố đi ngủ sớm là sự xuất hiện các phố đêm. Phố đêm có tổ chức có, phố đêm tự phát cũng có. Nếu những năm đầu, khi thành phố mới giải phóng, đêm đêm người dân có thú lên ga Huế uống trà, thì nay khi Huế có nhiều phố đêm phong phú đa dạng hơn. Có phố đêm được tổ chức như phố đêm Nguyễn Đình Chiểu, có những phố đêm tự phát như phố ẩm thực ở đường Hàn Thuyên, đường Mai Thúc Loan... phố giày dép, áo quần như ở đường Đinh Tiên Hoàng... Nhìn chung các phố đêm hiện nay đã phần nào tạo nên sự sôi động, nhộn nhịp về đêm ở Huế. Tất nhiên, có thể nói phố đêm ở Huế đang còn mang nhiều tính tự phát. Do vậy, nó chưa trở thành một địa chỉ văn hóa, chưa trở thành một thương hiệu gợi mở sự hăm hở, quan tâm của du khách khi đến Huế.
Một số đề xuất
Sự cần thiết hình thành các phố đêm thì không ai có thể phủ nhận. Nhưng phố đêm được tổ chức như thế nào thì cần được suy nghĩ thấu đáo. Làm sao để phố đêm thực sự là một địa chỉ văn hóa, chứ không phải là một địa chỉ của sự nhếch nhác, làm sao phố đêm là một thương hiệu đáng tin cậy, hấp dẫn thu hút du khách, đến Huế mà không đến các phố đêm là một thiếu sót, một hụt hẫng lớn.
Trước hết, đã là phố đêm thì phố chỉ diễn ra ban đêm, ban ngày trả lại nguyên trạng. Thứ đến, để phố đêm thực sự trở thành một địa chỉ văn hóa, hấp dẫn đối với du khách. Việc kinh doanh ở đây phải được tổ chức chặt chẽ với các sảm phẩm độc đáo của Huế, không trộn lẫn pha tạp như ẩm thực Huế, hàng lưu niệm đặc sản Huế, hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Huế... Đến các phố đêm, du khách phải thực sự an tâm bởi sự văn minh lịch sự: giá cả phải chăng hợp lý, du khách không thể bị lầm lẫn trong mua hàng, không có nạn cò mồi trong kinh doanh. Vệ sinh sạch sẽ, an ninh trật tự bảo đảm an toàn cho du khách.
Về địa điểm, nên chăng đường Trịnh Công Sơn trở thành đường ẩm thực về đêm của Huế. Các phố đêm khác bán hàng lưu niệm đặc sản Huế, hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Huế... Với các phố đêm này không nhất thiết đêm nào cũng tổ chức, không nhất thiết phải tổ chức ở một điểm cố định. Thí dụ như thứ bảy, chủ nhật hàng tuần tổ chức phố đêm ở đường Trần Hưng Đạo. Cũng có thể tổ chức ở đường 23/8, Lê Huân, Đoàn Thị Điểm, Đặng Thái Thân. Cách đây vài năm, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế tổ chức định kỳ “Đêm Hoàng Cung” rất công phu và tốn kém, nhưng do sự đơn điệu của nó, “Đêm Hoàng Cung” ngày càng èo ọp và nay dường như không hoạt động. Thí dụ: Bên cạnh “Đêm Hoàng Cung” có một phố đêm chắc rằng sự lôi cuốn hấp dẫn sẽ khác. Trong suy nghĩ như vậy, ở đâu có sự kiện thì ở đó có thể diễn ra phố đêm.
Tổ chức phố đêm không cần đầu tư nhiều, không cần phải có “dự án”. Chỉ cần các doanh nghiệp sản xuất hàng lưu niệm, hàng đặc sản hàng thủ công truyền thống trang bị một xe hàng linh hoạt, xe có thể trở thành quầy hàng, trình bày trang nhã. Phố đêm mở cửa: xe đến, đóng cửa: xe về. Vệ sinh sạch sẽ trả lại nguyên trạng, có chính sách giảm thuế khóa một thời gian hỗ trợ đầu tư ban đầu. Vấn đề còn lại là ở khả năng tổ chức quản lý, năng lực và cái tâm của người điều hành.
Hải Lê (TTH)

Viết về Huế

Nhang Trầm Huế 0946666419
Thời gian lững lờ trôi như nước dòng Hương thơ mộng. Mới ngày nào còn chập chững, ngơ ngác bước vào trường, thế mà… Thấm thoát đã qua mấy mùa phượng đỏ, đã mấy lần nghe tiếng ve rả rích gọi bạn những trưa Hè.

Tôi vốn là người con của Huế, là thần dân chốn Kinh kỳ. Đạo duyên đưa lối, Phật nhãn soi đường, rời Huế từ tấm bé, xa Mẹ với quê hương. Ngày ngày, ngoài những thời khóa tu tập, tôi cũng “lững lờ” theo dòng nhạc du dương, miệng ngân nga “khúc tình ca xứ Huế”, bồi hồi “thương về miền Trung” yêu dấu từ khách địa xa xăm. Một chiều “mưa trên phố Huế”, phải chạnh lòng “tạm biệt Huế” ra đi, trong tim lại mang một chút vấn vương về những cơn mưa dầm rả rích.
Dẫu ra đi, lòng tôi vẫn luôn hướng về miền cố quận Thùy Dương, lòng dâng lên một niềm thương khôn tả.“Thương về Mạ Huế” một nắng hai sương. Thương Ba còng lưng bốn mùa lam lũ. Thương dân Thần Kinh nghèo khổ, vất vả ngược xuôi, gồng mình đối chọi với bao tai biến của thiên nhiên. Với tâm trạng của một người ly hương, trong tôi luôn canh cánh một “nỗi buồn xa xứ”, vẫn thường hướng về miền đất Mạ cố đô.
Có những hôm, lòng lại rộn lên: “quê hương là gì hở mẹ, mà ai đi xa cũng nhớ về…”. Không nhớ sao được khi tuổi thơ tôi đầy ắp những kỷ niệm buồn vui, sớm khuya vui vầy cùng nương rẫy.
Trở lại Huế sau hơn 13 năm xa cách, Huế vẫn rứa… Dẫu đã thay da đổi thịt từng ngày nhưng Huế vẫn còn đó nét cổ kính, rêu phong trầm mặc, thời tiết Huế chẳng khác tự ngàn xưa. Mặc dù đã chuẩn bị tinh thần để chống chọi với khí hậu khắc nghiệt của Huế, nhưng khi trở lại, vẫn không tránh khỏi hệ lụy lâu dài. Cảm giác đầu tiên về Huế là “khó ở”. Thật sự khó ở! Người xưa nói rằng: “Thuận Hóa tứ thời giai Hạ, nhất vũ hóa vi Đông”. Thật vậy, giờ trước nắng như đổ lửa, giờ sau Huế đã lạnh se se. Thế mới biết Huế đặc biệt đến nhường nào.
Ai đã từng đến Huế, đều đọng lại trong trái tim nhỏ nhoi niềm thương cảm vô bờ. Thương Huế lắm, miền núi Ngự sông Hương thơ mộng mà răng nhiều thiên tai, bão lụt đến rứa. Thương lắm cái nắng – cái mưa – cái lạnh – cái khó khăn của Huế. Nhiều người đến Huế đã gật gù: Huế đẹp – Huế thơ – Huế mơ – Huế mộng. Và cũng chừng đó người lắc đầu ngao ngán về: mưa Huế – nắng Huế – lạnh Huế và… người Huế…
Nói rứa không có nghĩa là người Huế xấu xa và đáng sợ. Người dân xứ Huế quê tôi cần cù, chịu thương chịu khó lắm, đặc biệt là rất thân thiện và mến khách, tình cảm lại dạt dào (như tôi nè…).
Huế là nơi bốn mùa xen trộn, không thể lầm lẫn ở một nơi nào được. Huế là miền “có nắng Hạ giữa mùa Thu, mây khắp trời giữa mùa Xuân”. Như đã nói ở trên, Huế có “mùa Đông giá rét buốt lạnh con tim, mùa Hạ cháy da thêu vàng ngọn cỏ”.
Đây chính là đặc trưng của Huế!
Ai chưa từng đến Huế, thì xin một lần dừng chân ghé lại thăm miền Thùy Dương cát trắng, để một lần Huế tiễn bạn ra đi, rồi hơn một lần trong tim của chính bạn khắc khoải niềm thương khi phải “giã từ Cố Đô”trong một buổi chiều “mưa trên phố Huế”.
Mỗi lần đến Huế bạn sẽ có một cảm nhận khác nhau về vẻ đẹp của Huế, vẻ đẹp của người Huế, về nghệ thuật ẩm thực của Huế…
Huế quê em xin mời muôn khách lạ
Ngắm trăng trong thơ thẩn với dòng Hương
Mai đây dẫu mấy dặm trường
Hò… ơi… mái nhị, nam bường lắng sâu
Trong đêm trường cô tịch, ánh trăng ngà soi bóng Hương Giang, sóng nước vỗ nhịp mái chèo nghe rưng rức nghẹn ngào như lời chia tay với người tri kỷ.
Hò… ơi…
Hương tỏa đôi bờ lững lờ thuyền mộng
Cung đàn trầm bổng nhịp phách trang đài
Sông Hương trăng gió láng lai
Câu ca điệu lý cảm hoài nhớ thương…
Câu hò mái nhì, mái đẩy, khúc hát nam ai, nam bường, tiếng phách nhịp khoan thai đêm đêm vẫn vang vọng trên dòng sông thơ mộng, khiến bao lữ khách phải bâng khuâng, dẫu nghe qua ngôn từ chưa thấu hiểu, nhưng tấm chân tình đã thấm vào hồn kẻ tri âm.
Huế không phải là nơi có những danh thắng kiêu sa hiện đại, nhưng là nơi khiến tất cả phải hướng về. Vẻ đẹp trầm mặc của Huế, giọng nói sâu lắng đến lạ kỳ của người Huế, dẫu khó hiểu nhưng cũng kịp làm rung cảm đến tận đáy tâm hồn người nghe.
Huế có kinh thành nội, nơi chứng kiến biết bao sự đổi thay trong bộ máy quyền cai đất nước, lúc thịnh lúc suy, khi vinh khi nhục. Huế có lăng tẩm đền đài, là nơi lưu dấu nghìn thu của các bậc vua chúa. Huế có sông Hương hiền hòa mát trong thơ mộng, có núi Ngự thông reo vi vút giữa trời xanh.
Huế không lắm chùa to Phật lớn, nhưng rất nhiều cảnh u tịch già lam. Huế có Từ Đàm, ngôi Phạm Vũ đã chứng tri biết bao biến động trầm hùng của lịch sử. Ngôi bảo tháp được dựng xây sừng sững như thể vươn lên khỏi lớp bụi hồng trần. Huế có Thiên Mụ, ngôi cổ tự hùng thiêng trải qua bao thế hệ xứ Đàng Trong, hồi chuông Thiên Mụ vẫn còn đây, vẫn vang vọng từ ngàn xưa tận mãi ngàn sau. Tháp Phước Duyên vòi vọi giữa chốn Kinh kỳ, như thâu gọn hồn thiêng của tổ quốc.
Bên dòng Hương Giang soi bóng biếc
Tháp ngà ngút tận mấy tầng xanh.
Lưu dấu ngàn năm hồn dân tộc
Mãi tận ngàn sau khí hùng anh
Đến Huế, ta như được trở về với Mẹ, trở về nơi nương tựa của tâm hồn. Sống trong khung cảnh Huế, tất cả đều cảm nhận được giá trị đích thực của cuộc sống, nhận ra được thể tánh thường hằng bất biến ở mỗi con người. Đến Huế, như thể đã tìm về được cội nguồn tâm linh, khi thoảng nghe tiếng chuông chiều tỉnh thức.
Cố Đô ngân vọng tiếng chuông
Hỏi người xa Huế, có buồn hay không?
Buồn không? Một mai rời xa xứ Huế, bạn sẽ thấy sâu thẳm tận trái tim mình niềm tiếc nuối nhớ nhung… Bạn đã rời xa Huế, chắc chắn trong tâm thức bạn luôn mong có một ngày về.
Huế không chỉ có núi Ngự sông Hương, đền đài lăng tẩm, trong lòng Huế còn có rất, rất nhiều thứ để khám phá như ẩm thực, âm nhạc, nghệ thuật cung đình…
Một lần ghé Huế, một lần nghe tiếng “dạ, thưa” của người con gái Huế, mới cảm nhận sự dịu dàng của thục nữ chốn Kinh kỳ.
Sáng nay, không khí thật trong lành. Sự yên bình bao phủ khắp cả kinh thành Huế. Giờ đây, chính là lúc thích hợp nhất để cảm nhận sự cổ kính rêu phong, trầm mặc rất đỗi dễ thương của Huế. Ngoài sân, từng hạt mưa tí tách, như rơi giọt lệ chia ly cho người tri kỷ. Trên tay một tách trà thơm quyện với hương trầm thoảng đưa con người thoát ra khỏi sự nhiễm ô của thói đời trần tục.
Xa Huế đã lâu, nay về lại sống trên mảnh đất quê hương, chưa kịp cảm nhận hết sự nhiệm mầu của Huế thì lại sắp phải chia ly. Ai ra đi rồi cũng còn lưu lại chút niềm thương với Huế, để rồi cứ ray rứt mãi mảnh hồn nơi xứ lạ.
Mai xa rồi, xa miền quê yêu dấu
Xa mái trường, xa bằng hữu thân thương
Ta ra đi, mang một thoáng sầu vương
Bao kỷ niệm xin ghi vào nhung nhớ…!
Sống ở Huế, học hỏi được rất nhiều điều, cảm nhận được rất nhiều điều mà chẳng nơi nào có được. Nhưng hội ngộ rồi cũng phải phân ly, đấy là quy luật tất yếu của cuộc sống. Thêm một mùa Xuân nữa lại về, đây là mùa Xuân cuối cùng của tôi trên mảnh đất tình người. Kể từ đây, chúng tôi chính thức rời xa Huế, xa bạn xa thầy. Nhưng dẫu ở phương nào thì tình thầy nghĩa bạn vẫn tợ keo sơn, vẫn mãi nhớ về mái ấm Học viện, nhớ lại những tháng ngày chung lớp chung trường.
Vâng. Chia tay – lưu luyến. Dẫu bịn rịn, vấn vương rồi cũng phải chia phôi sau phút giây tao ngộ tương phùng. Kết thúc để bắt đầu, đó là nguyên lý.
Rời xa ghế nhà trường – nơi một thời lưu dấu tuổi học sinh – hướng đến tương lai với bao ước vọng, thực hiện hoài bão được ấp ủ, thai nghén trong một quá trình dài. Kết thúc đời sinh viên để bắt đầu cho một cuộc sống mới, cao cả hơn, rộng lớn hơn, đồng thời, hoàn thành trọn vẹn lý tưởng giải thoát, hoằng pháp lợi sanh.
Mặc dù vẫn biết “nhạn quá trường không, ảnh trầm hàn thuỷ…”, nhưng sống trong thế giới đối đãi, cũng cần có một cái gì đó để lưu lại với người. Nghĩ suy, đắn đo mãi mà chẳng biết viết chi, chỉ biết chắp bút ghi lên vài dòng cảm nhận.
Vẻ đẹp chốn Huế đô đã có biết bao thi nhân mặc khách miêu tả bằng ngòi bút ngọc ngà và lời văn diễm lệ. Tôi không phải nhà văn, nhà thơ, cũng không phải người lưu thông chữ nghĩa, càng không phải là một sứ giả quảng bá thương hiệu Huế thân yêu. Tôi là một người con của Huế, chỉ muốn nói lên cảm nhận của lòng mình về nơi chôn nhau cắt rốn, cùng thời gian theo học dưới mái trường. Thế nên không ngại văn từ luộm thuộm, chữ nghĩa cạn cợt, bạo dạn lưu lại một chút hương tình.
Không biết bao giờ mới trở lại sinh sống tu học nơi đây, nhưng dẫu ở phương nao cũng hẹn một ngày “trở về thôn cũ”. Mong một lần đón Tết với Huế thương, không còn cảnh đón “Xuân tha hương, lạc xứ”. Giờ đây, lòng chỉ còn sót lại Khúc Tâm Xuân, lưu dấu tình trường, tình quê, tình pháp lữ.
Rồi sẽ hẹn ngày về.
Huế ơi!
Hữu Văn (yume.vn)

Thứ Năm, 3 tháng 12, 2015

Một mùa thu kỳ lạ của Huế - Mưa Huế

Nhang Trầm Huế 0946666419

Đang những ngày mưa ở Huế tháng 10 này, lại nhắc đến mưa Huế, liệu đây có phải là đặc sản của Huế của mùa thu Huế, nhưng Huế làm gì có mùa thu? Hay là mùa thu Huế quá ngắn đến mức nhiều người không kịp nhận ra...?
Huế, Thành phố không có mùa thu ?
Không có cái năm nào lạ như năm 2015 con Mùi này, tháng 8 dương lịch trời Huế đột nhiên mát dịu trong cõi nắng vàng sau những cơn mưa và kéo dài suốt tuần sau đó, khiến ai ai cũng ngỡ ngàng có phải thu đã về trên Huế vẫn đang cổ kính dẫu trên đôi tay không còn đôi vầng nhật nguyệt mà giờ đang là những chiếc smartphone điệu ngộ...
Nhưng có phải lúc đó thu đã về không? Hay chỉ là một phái sinh của biến đổi khí hậu khiến mùa thu cả ba miền Bắc - Trung - Nam đều đổi sắc? Trong cái nắng đương đại vàng một màu thiền trên sông Hương như hôm nay, không thể không nhớ cái mùa thu mênh mang của Huế từ bao ngày xa lơ xa lắc...
Trong vỉa tầng ký ức đời người, mùa thu thường hiện lên trong tôi một không gian cao rộng của tầng không. Không gian xanh lơ tinh khôi và mới mẻ nằng nặng hương vị ẩm mục của cây trái trong vườn. Và màu của mùa thu thênh thang xanh đến mềm tươi đầy nhựa sống trên lá non, mềm tươi đầy trải nghiệm trên những chiếc lá vàng. Hơi thở của mùa thu cũng nhè nhẹ hơn, không hừng hực như mùa xuân tràn đầy, không riết róng như mùa hạ nóng bỏng và không xuýt xoa như mùa đông lạnh giá... Ngày xửa ngày xưa, mùa thu gieo hạt giống trong ký ức trẻ thơ là những dòng thu sang “Tôi đi học” của cố nhà văn Thanh Tịnh. Gần như không chỉ trong tôi, mà trong nhiều người khác, đó là một áng văn đẹp nhất về buổi tựu trường. Năm nào đó, giữa xứ Huế đọc xong bài “Thu điếu” của thi hào Nguyễn Khuyến, lòng thơ trẻ của tôi hình dung mùa thu là giấc ngủ trưa yên ả dưới khóm trúc nín thinh trong gió. Đến khi đọc “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, mùa thu gõ vào nhịp tim tôi là tiếng lá khua động trong không gian tĩnh mịch rừng thưa của con nai mơ hồ nào đó. Và khi nhìn thấy phiên bản bức tranh “Mùa thu vàng” của Levitan in trên giấy bóng trong tạp chí ảnh của Liên bang Xô Viết cũ, tôi nhận ra thế giới mùa thu không chỉ có tiếng dế mèn trái mùa nơi bãi biền ven sông mà còn có cái mênh mông của thảm lá vàng rơi... Mùa thu tích cóp dần trong tôi qua tháng năm toàn là những kỷ niệm kiểu như thế và lòng tôi luôn luôn mở cửa đón nhận những vị khách mơ hồ, hiền hòa, đầy bất ngờ cao rộng của sự nhẹ nhàng không biên giới, trải dài vô bờ bến như những làn sóng lăn tăn trên một dòng sông dìu dịu...
Mưa nắng đất kinh kỳ cũng dạy dỗ cho tôi biết rằng giữa mùa thu trong trang sách với mùa thu thực tế ở Huế, đã có một khoảng cách biệt rộng lớn. Ngày đầu tiên đi học của tôi, không có nắng vàng tươi rực rỡ trên cao, không có hoa cỏ hai bên đường và không có cả “lá ngoài đường rụng nhiều”... mà hôm đó là một ngày “nắng tháng 8 nám trái bưởi”, nắng đổ mồ hôi cháy da cháy thịt mà cái nóng hãy còn đeo đuổi tôi đến hơn 30 năm sau, đến tận bây giờ.


Cũng có người cắc cớ đặt dấu hỏi Huế làm gì có mùa thu? Bèn nói thật là tôi nghĩ mùa thu Huế quá ngắn đến mức nhiều người không kịp cảm nhận ra rằng Huế có mùa thu. Và rồi, cũng có thể vay mượn trong trí tưởng tượng một chút thu sang từ mơ hồ xa xôi nào đó để ứng với Huế, như thể cũng có mây bay trôi ngang đỉnh Ngự, như thể lá rụng đầy sông Hương hay trong những khu vườn Huế. Thế rồi mới thấy là không thể tưởng tượng ra mãi, bởi vì vòm long não trên đường Lê Lợi vẫn ngang nhiên xanh, không nhuốm một chút vàng nào để rụng.
Vậy Huế có mùa thu không? Và mùa thu Huế nó thế nào?...
Nếu định nghĩa mùa thu chỉ đơn giản là “Mùa chuyển tiếp từ hạ sang đông, thời tiết mát dịu dần” thì quả thật mùa thu có ở khắp nơi trên trái đất, trừ xứ Huế vốn chỉ có hai mùa mưa nắng. Sang tháng 7, tháng chớm thu nắng đã vợi bớt nhiều so với tháng 5, tháng 6 nhưng Huế vẫn nóng từng ngày. Có thể nửa đêm về sáng giấc ngủ cần một mảnh chăn đơn cho ấm nhưng đầu hôm tắt đèn vẫn phải để quạt chạy vù vù. Hơi thu vì thế, nói đùa như câu chuyện men rượu về khuya, bắt đầu len vào người từ lúc nửa đêm, lúc mọi người bắt đầu trôi vào giấc điệp, kể cả trong giấc mơ cô gái vừa đi qua cảm giác lâng lâng của lần đầu hò hẹn mà nụ cười hạnh phúc còn đọng trên khóe thu ba.
Có lẽ cái mát dịu của mùa thu xứ Huế cũng chỉ đến với người len lén trong khuya sâu như thế thôi. Hình như Huế chỉ có mùa thu về mặt thời gian, còn về mặt không gian thì họa hoằn lắm mới có được những ngày thu sang thắm thiết. Nhưng mà vẫn thấy mùa thu Huế chuyển rõ ràng sau những cơn mưa bất chợt như nước mắt vợ chồng Ngâu rơi xuống vào những ngày cuối hạ. Mưa nhẹ thôi, từ tang tảng sáng, hay từ xê xế trưa, để im vắng một khoảng trời nhung nhớ truyền thuyết thủy chung từ đó giăng nhớ sang chiều, sang đêm. Mùa thu xứ Huế về mặt không gian thì nhẹ nhàng, ngắn ngủi như không có gì, diễn ra cũng chỉ vài ngày im ắng song về mặt thời gian thì lại nặng bao khối ân tình. Ngoài chuyện vợ chồng Ngâu qua cầu Ô Thước gặp nhau trong ngày trùng thất, Huế còn có cả một mùa Vu lan con cái báo hiếu cho cha mẹ. Huế có gần một nghìn ngôi cổ tự, ngày rằm tháng 7 xá tội vong nhân, con cái lên chùa lễ Phật cầu cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi. Sông Hương năm nào cứ đến ngày rằm tháng 7 là hoa đăng nhà chùa thả giăng đầy mặt sông, như màu thu hoa đăng rực lên trong đêm về ý niệm sống nhân bản. Trong cả năm, mùa phóng sanh nhiều nhất của người dân Huế cũng là vào dịp này.
Thế nhưng, tất cả những câu chuyện ân tình ấy lại diễn ra rất đỗi nhẹ nhàng tự nhiên như tiếng chuông chùa nhẹ đưa, như lá trúc khẽ chao nghiêng trước gió. Ở đây có hai điều cần nói. Thứ nhất, tính cách Huế chi thì chi đi nữa, vẫn là thứ tính cách nhẹ nhàng, khoan thai hạng nhất thế giới, nên tính cách Huế cũng có thể ví von như tính cách mùa thu. Thứ hai, người Huế thường hay đùa về cái tình cảm của mình “chắt chiu mà hào sảng, đơn giản mà thâm trầm”, thấy cũng y như mùa thu xứ Huế. Như thể cái mát dịu được chắt chiu cả năm, để dành ra mát dịu cho đời được vài ngày thu Huế ngắn ngủi...
Mùa Thu, mùa đặc trưng của Huế
Gần như cái mát dịu của mùa thu đi tìm nơi trú ẩn trong vườn hoa trái, nên mùa thu là mùa cây trái xứ Huế chín rộ. Nhãn lồng Thành Nội vừa chín đến trái cuối cùng, các nhà vườn còn lủng lẳng thanh trà, cam, quýt, bưởi bòng... Thanh trà Nguyệt Biều bây giờ đã thành biểu tượng hoa trái xứ Huế. Quả này uống nước sông Hương, ăn đất bãi bồi sông Hương nên ngon, ngọt, thơm mùi thanh khiết đất trời Hương Ngự. Từ tháng 6 ta, thanh trà đã được các vườn bắt đầu thu hoạch nhưng phải đến tháng 8 ta, thanh trà mới ngon. Là bởi vào tháng này, các cây đại lão thanh trà mới chín trái, trái nhỏ thôi mà thơm mà ngọt quá chừng như hương mùa thu đã được tôi luyện. Cũng vậy, tháng 8 quýt Hương Cần mới ngon. Quýt Hương Cần có đặc điểm khác với các quýt khác là trái nhỏ, hơi dẹp, ở đầu tự nhiên cái núm lún xuống như cái núm đồng tiền trên má người con gái. Ăn quýt Hương Cần nên chờ đến tháng này hãy ăn; ăn sớm quá, trái thơm gắt mà không ngọt. Ăn vào tháng này, trái chín ủ trong tiết trời nắng nóng đã dịu đi nên cái mùi thơm vẫn thăng hoa mà vị ngọt lại như lắng đọng. Cắn một múi, nước tứa ra đầu lưỡi chưa kịp nhăn mặt đã nghe vị ngọt ùa đến bất ngờ, rồi mùi hương xộc lên mũi ngan ngát, rất riêng biệt. Cái ngon của quýt Hương Cần là vậy đó!
Lững thững về làng mùa thu, mùi rơm phơi dọc đường làng dậy lên tươi mới thơm thơm ngọt ngọt. Sau những ngày nắng gắt, rau cỏ trong vườn như tươi non hơn sau những cơn mưa chuyển mùa. Để ý thì mới thấy rau muống dịp này ở Huế ngon nhất trong năm. Như thể cơn mưa sau chuỗi ngày nắng gắt mùa hạ đã đánh thức tất cả mầm sống của cọng rau, khiến cái đọt rau nó trườn ra mãnh liệt, khiến cái ngọt thanh của cọng rau muống cũng được dịp mà non, mà mềm. Ăn rau muống dịp này nên ăn cả nước luộc vắt tí chanh, đơn giản vậy mà khó có sơn hào hải vị nào sánh bằng...
Về làng gặp lúc ngay sau trận mưa lớn, có khi lụt tiểu mãn, bấy giờ cánh đồng làng vừa gặt xong, cá rô, cá trê rúc từ hói rúc lên đồng, chỉ cần đặt chẹp là bắt được khối cá. Con cá rô đợi sang tháng 10 mới ngon nhưng lúc này cũng là lúc cá trê đã vàng lượm cái lườn béo ngậy, cá rô cũng đã mang đầy trứng trong bụng, kho với dưa cải, chắc không ai quên được món ngon đồng quê...
Mùa thu Huế ơi, sao ngắn chẳng tày gang mà bao nhiêu câu thơ viết hoài không hết...?!
Theo Hồ Đăng Thanh Ngọc (doanhnhanviet.org.vn)

Trải nghiệm đạp xe trên phố và săn hoàng hôn ở Huế

NHANG TRẦM HUẾ 0946666419
Đạp xe giữa phố yên bình, nếm thử các đặc sản địa phương hay săn hoàng hôn trên phá Tam Giang là những cách giúp du khách cảm nhận sâu sắc hơn về xứ Huế mộng mơ.
Nằm ở miền Trung, Huế được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Với dòng sông Hương êm đềm cùng nhiều di sản để lại từ triều đại phong kiến, Huế hấp dẫn và thu hút nhiều khách du lịch.
Khám phá các lăng tẩm
Xứ Huế nổi tiếng với những cung điện vàng son, lăng tẩm uy nghiêm của các vị vua triều Nguyễn. Triều đại này có 13 vua nhưng chỉ 7 khu lăng tẩm được xây dựng. Hành trình khám phá những công trình này chính là tấm vé đưa bạn quay ngược lại quá khứ, sống trong thời kỳ phong kiến của Việt Nam.

7 khu lăng tẩm còn lại ở Huế theo thứ tự là Gia Long (Thiên Thụ Lăng), Minh Mạng (Hiếu Lăng), Thiệu Trị (Xương Lăng), Tự Đức (Khiêm Lăng), Dục Đức (An Lăng), Đồng Khánh (Tư Lăng) và Khải Định (Ứng Lăng). Ảnh: dulichtamhonachau.
Đặc điểm chung của các lăng tẩm là đều nằm về hướng Tây của kinh thành. Mỗi công trình lại có kiến trúc riêng, mang phong cách của từng vị quân vương nhưng đều tiêu biểu cho nền mỹ thuật Việt Nam.
Thăm chùa Thiên Mụ
Đây là một trong 40 trải nghiệm tại Việt Nam bạn nên thử do tờ Huffington Post (Mỹ) gợi ý. Thiên Mụ là ngôi chùa cổ, có kiến trúc đồ sộ nằm trên đồi Hà Khê, xây dựng năm 1601. Trong lịch sử, chùa từng được dùng làm đàn Tế Đất triều Tây Sơn rồi trùng tu, tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn.
Hiện nay, khuôn viên chùa chia làm hai khu vực: Trước cửa Nghi Môn gồm bến thuyền, cổng tam quan, tháp Phước Duyên, lầu bia hình tứ giác, lầu chuông. Khu vực trong cửa Nghi Môn gồm điện Đại Hùng, Địa Tạng, Quang Âm, vườn thông...
Thưởng thức ẩm thực Huế
Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Giản, Việt Nam có khoảng 1.700 món ăn. Trong đó, Huế sở hữu tới 1.300 món và hiện còn lưu truyền khoảng 700 cái tên. Đây là nơi dân cư khắp nơi theo chúa Nguyễn vào lập nghiệp. Vì vậy, nét ẩm thực phong phú hơn với nhiều món từ sang trọng đến mộc mạc, giản dị.

Cơm hến là một trong những món ăn nổi tiếng ở Huế. Ảnh: Hương Chi.
Ẩm thực Huế có cách chế biến cầu kỳ. Mỗi món ăn phải đáp ứng các tiêu chí như hương vị đạt chuẩn, vị nào ra vị ấy, hình thức đẹp mắt. Du khách có thể thử các món mặn truyền thống, tráng miệng hoặc đồ chay để cảm nhận rõ nét tài hoa, khéo léo của người chế biến cũng như đặc trưng của vùng đất này.
Nghe ca Huế trên sông Hương
Nghe ca Huế trên sông Hương là "đặc sản" của đất cố đô. Thông thường hoạt động này được tổ chức vào buổi tối, thời điểm các con phố lên đèn, hắt ánh vàng dịu dàng xuống lòng sông phẳng lặng. Lúc này, chiếc thuyền từ từ rời bến, đưa đoàn người ngược dòng, hòa vào không gian yên bình giữa cuộc sống xô bồ. Tới khi sẵn sàng, các ca sĩ mới bắt đầu buổi biểu diễn của mình.
Ca Huế hình thành từ dòng nhạc dân gian và cung đình. Mang đậm sắc thái địa phương với ngữ điệu êm ái. Loại nhạc này thể hiện hai dòng là điệu Bắc với tiết tấu tươi tắn, trang trọng và điệu Nam gồm những nhạc phẩm buồn, ai oán. Các nhạc cụ dân tộc sử dụng chủ yếu giúp màn trình diễn tạo dấu ấn sâu hơn trong lòng khán thính giả.
Đạp xe quanh các con phố yên bình
Huế thu hút nhiều du khách nhưng cuộc sống ở đây nằm ngoài vòng quay ồn ã do du lịch mang lại. Vẻ yên bình, trầm lắng bao trùm mọi ngóc ngách, từ những con đường rợp bóng cây xanh, từng nếp nhà in dấu thời gian đến bức tường rêu phong xưa cũ.
Du khách có thể đạp xe để cảm nhận hơi thở chậm rãi ấy. Theo từng vòng quay, bạn hãy đi từ khu trung tâm ra ngoại thành hay dừng lại ở góc ngã tư nhỏ, hẹp với cây xanh phủ mát. Bên cạnh đó, hoạt động này cũng giúp bạn tự tìm kiếm và thưởng thức những món ăn ngon.
Nghe những hướng dẫn viên 80 tuổi thuyết trình
Làng Thủy Thanh Chánh có hai điểm du lịch nổi bật là cầu ngói Thanh Toàn và nhà nông cụ, nơi tái hiện lại cảnh sinh hoạt làng quê xưa. Không giống nhiều nơi, tới đây, du khách được nghe các mệ già thuyết minh, giới thiệu công cụ nhà nông, những công việc đồng áng thường thấy...
Ngoài những thông tin hấp dẫn, các mệ còn ngân điệu hò, ca Huế để chuyến tham quan không đơn điệu, nhàm chán. Nhờ đó, du khách có thể hiểu thêm đời sống tinh thần của những ngươi nơi đây. Nếu muốn, bạn cũng có thể học lại những câu hát đơn giản.
Săn hoàng hôn phá Tam Giang

Phá Tam Giang là đầm nước lợ lớn nhất Đông Nam Á. Ảnh: Cao Anh Tuấn.
Phá Tam Giang cách thành phố Huế chừng 12 km. Cuộc sống của người dân ở đây chủ yếu xoanh quanh nghề chài lưới. Vào ban ngày, nơi này giống các vùng sông nước khác. Tuy nhiên, khi hoàng hôn, cả vùng rộng lớn chìm trong sắc hồng vàng khiến cảnh vật nên thơ và thêm phần quyến rũ. Đây cũng chính là yếu tố giúp phá thu hút du khách. Lúc này, bạn có thể lặng yên tận hưởng sự bình yên bao trùm khắp nơi. Thêm một cách để bạn lưu lại được khoảnh khắc này là thuê một chiếc thuyền nhỏ lướt giữa trời mây.
Theo Diệu Huyền (VnExpress)

Nét đẹp trong phong tục đầu năm ở Huế


Nhang Trầm Huế 0946666419
Phải thức khuya để hoàn tất việc cúng lễ giao thừa, mọi người vẫn phải dậy sớm để lấy may trong ngày đầu năm đầy ước vọng.

Bàn thờ ngày Tết của một gia đình ở Huế. (Ảnh: Phạm Bá Thịnh)
Bà nội tôi thường căn dặn trước những việc phải làm, những điều kiêng kỵ trong ngày đầu năm. Đó là tất cả mọi người trong gia đình từ nhỏ đến lớn thức dậy sớm, sau khi rửa mặt mũi phải nhanh chóng thay bộ đồ mới. Trước hết là chào hỏi tất cả những người trong nhà mà mình gặp đầu tiên.
Tôi vẫn còn nhớ như in những tiếng chào năm mới rộn ràng xen lẫn với tiếng cười giòn tan bởi ai cũng tay bắt mặt mừng như lâu ngày mới lại gặp nhau. Khuôn mặt phải thật vui tươi và nụ cười phải thật rạng rỡ, kiêng kỵ nhất là chọc ghẹo hay đánh mắng trẻ con.
Đi đứng nhẹ nhàng, nói khẽ, tránh gây tiếng động, nhất là việc gây đổ bể bất kỳ một vật dụng gì. Tránh nói đến những từ ngữ xấu, buồn, xui xẻo… vì người xưa thường ước lệ rằng những điều đó sẽ gây rủi ro trong năm mới. Khi lớn lên, tôi nghĩ đây cũng là dịp để các bậc tiền nhân ôn lại cho mọi người cách nói năng trang nhã, dịu dàng của người Huế.
Những người lớn trong nhà như bố mẹ, các bác, cô, chú sẽ bày biện mứt bánh, hoa quả, trái cây và sửa soạn hương đèn, trầm trà nghi ngút trên bàn thờ để toàn thể gia đình cùng làm lễ cúng gia tiên. Các bình thường cắm những loại hoa mùa xuân như hoa lay ơn, thủy tiên, hoa cúc vàng, thược dược… Các hộp đựng bánh mứt với đầy đủ các loại nổi tiếng và truyền thống ở Huế như bánh hột sen, bánh đậu xanh, bánh in, mứt gừng, mứt bí, mứt cam quật… Không khí đầm ấm, lắng đọng, thoang thoảng mùi hương trầm, hương hoa quả và cả ánh đèn nhấp nháy trên bàn thờ rực rỡ.
Trước tiên, bà nội thắp 3 nén hương thành kính mời gia tiên nội tộc về ăn Tết với gia đình, và cầu mong các cụ phù hộ cho con cháu. Từng người theo thứ tự từ lớn đến nhỏ lần lượt vái lạy tổ tiên và lầm rầm khấn vái, cầu mong năm mới viên mãn, hạnh phúc, và một lần nữa mời tổ tiên, những người đã khuất cùng về sum họp, thưởng xuân với con cháu trong 3 ngày Tết đầm ấm này.
Sau khi cúng bái, cả nhà quây quần bên chiếc sập gụ cẩn xà cừ hay bộ trường kỷ đặt giữa phòng khách. Bao giờ ông bà cũng là người đầu tiên chúc Tết cho cả nhà, cầu mong con cháu trong năm mới gặp nhiều may mắn, làm ăn tấn tới, học hành đỗ đạt…Ông bà không quên lì xì các cháu nhỏ trong nhà những phong bì tươi thắm với tờ giấy bạc mới tinh. Các cháu lần lượt nhận, cúi đầu thành kính cảm ơn và cầu chúc ông bà sống lâu trăm tuổi, phúc lộc tràn trề…
Các bậc trung niên như bố mẹ, các bác, cô, chú thường kính cẩn mừng tuổi ông bà cùng lời chúc dồi dào sức khỏe, sống lâu cùng con cháu. Thông lệ trang trọng tiếp theo không thể thiếu là khai bút đầu xuân với những chữ có ý nghĩa như phúc, lộc, thọ, tâm, nhẫn… Ai biết chữ nho thì viết, ai không biết thì hí hoáy bằng chữ quốc ngữ, miễn nắn nót cho đẹp là được.
Tiếp đến là dùng bữa sáng đầu tiên trong năm với các loại bánh trái, thức ăn truyền thống chỉ có trong ngày Tết như bánh tét, bánh chưng, dưa món, chả thủ, chả lụa… Bữa ăn thường tràn ngập tiếng nói cười râm ran, tiếng mời chào rộn rã. Sau bữa ăn, mọi người nhắc nhau sửa sang lại trang phục, tô điểm má hồng cho tươi tắn để đi chúc mừng láng giềng, các bậc cao niên trong họ tộc trước khi đi lễ chùa lạy Phật để cầu an, may mắn.
Hiện nay nhiều gia đình khá giả có khuynh hướng nghỉ ngơi, thư giãn qua các chuyến du lịch gần xa để tránh những thủ tục phiền toái, rườm rà trong ngày Tết… Nhưng với tôi, những phong tục trong ngày đầu năm mới luôn thiêng liêng và đáng nhớ, mang đến ngày Tết đoàn viên, sum họp.
Theo Hàn Linh (VnExpress

Thứ Ba, 1 tháng 12, 2015

Về làng hương trầm ngửi vị Tết

Nhang Trầm Huế 0946666419


Những ngày giáp Tết Nguyên đán, người dân ở làng hương Thủy Xuân (TP Huế) đang tất tả sản xuất hương trầm kịp phục vụ cho dịp cao điểm cũng là mùa sản xuất lớn nhất trong năm.

Nghề hương – nghề cần cái tâm của người làm
Chạy dọc theo con đường Huyền Trân Công Chúa xuôi về lăng Tự Đức những ngày này cận Tết Ất Mùi này, người ta sẽ bị thu hút ánh nhìn bởi sắc màu đỏ vàng của những khóm hương phơi dưới nắng. Ở làng này có truyền thống làm hương trầm từ rất lâu đời phục vụ cho người dân địa phương và khách du lịch đến Huế.
Những vị cao niên trong làng cũng không rõ nghề làm hương trầm có từ bao giờ, chỉ biết là đời cha ông đi trước làm rồi đời con cháu cứ vậy mà nối nghề mãi cho đến tận ngày nay. Mà kỳ thực bây người ta cũng không quan trọng nó khởi nguồn như thế nào mà chỉ chú trọng kỹ thuật làm hương để mang lại hiệu quả cao.
Nghề làm hương của Huế nổi tiếng nhất phải kể đến đó là loại hương trầm với mùi hương khi đốt lên nhẹ dịu, sâu lắng mà ấm áp lạ thường. Hương trầm xứ Huế nhìn thì thấy thật đơn giản. Nhưng để có được những nén hương ưng ý là cả sự kỳ công tỉ mẫn của người thợ.

Làm hương trầm ở làng Thủy Xuân
Làm hương trầm ở làng Thủy Xuân gần lăng vua Tự Đức
Cái mùi hương dìu dịu, phảng phất mang đến cho lòng người cảm giác linh thiêng và thành kính ấy được làm ra từ rất nhiều vị, chủ yếu là thuốc bắc. Gần 60 nguyên phụ liệu cho một nén hương chủ yếu là những vị thuốc bắc như: Tùng, trắc, quy đầu, bạch chỉ, hắc hương, hoa hồi, quế chi, cam thảo và hàng chục vị khác nữa. Tất cả được đem xay nhỏ thành bột riêng từng loại rồi pha trộn chúng từng thứ theo công thức nhất định.
Phần lõi hương thường được làm từ ruột tre chẻ nhỏ, được phơi kỹ qua nắng, qua sương nhiều ngày trời để tre thật khô, thật giòn. Có vậy, khi đốt lên cây hương sẽ cháy đều, cháy đến tận chân hương, và tàn hương thì uốn cong mà không gãy ngang bất chợt.
Cán hương là công việc khó nhất, quyết định đến tính thẩm mỹ của sản phẩm. Bà Nguyễn Thị Loan, người đã có thâm niên gần 30 năm với nghề làm hương cho biết: “Lăn phải nhẹ tay, vừa lăn vừa ép cho thịt bột bám đều vào que hương, có như vậy thì cây hương mới đẹp và chắc”.
Làm hương trầm ở làng Thủy Xuân
Cả làng bây giờ chỉ còn duy nhất nhà bà Loan là còn làm hương thủ công
Hương được phơi khắp sân, sắc vàng rực rỡ. Hương được bó chân lại với nhau từng bó lớn, thân xoè ra phơi nắng, mầu vàng sáng trông tựa như những bông cúc đại đoá đủ màu sắc thật đẹp mắt.
Làm hương trầm ở làng Thủy Xuân
Chân hương được xếp lại như bông hoa cúc đẹp khổng lồ 
Làm hương trầm ở làng Thủy Xuân
Chân hương được nhuộm màu rất bắt mắt

Hương trầm ngày nay người ta chủ yếu sản xuất bằng máy, vừa nhanh mà cây hương lại đều đẹp. Tuy nhiên theo bà Loan thì hương làm bằng tay chắc hơn, cháy chậm và mùi tỏa thơm hơn. Hiện cả xóm chỉ còn mỗi gia đình cô còn làm bằng tay. “Làm thủ công thì những người khách trong và ngoài nước họ mới biết được cách làm truyền thống và có thể làm thử được chứ bằng máy thì nó không thú vị bằng. Làm hương không khó nhưng người làm cần cái tâm thì sản phẩm của mình mới có chỗ đứng.” – bà Loan nói.
Với cách làm thủ công truyền thống thì mỗi ngày một người thợ như bà Loan có thể làm được từ 7.000 đến 8.000 cây. Còn làm máy thì cho hiệu suất cao gấp 3 lần. Hiệu quả kinh tế mang lại từ nghề làm hương tuy không cao nhưng cũng đủ đảm bảo được cuộc sống hằng ngày cho người lao động.
Hương trầm – nét đẹp văn hóa tâm linh người Việt
Nén hương trầm toả ra mùi thơm ngào ngạt như sợi dây máu thịt nối liền giữa người đang sống với vong linh những người đã khuất. Đúng như câu ca dao:
Vẫn còn đây những lời ru
Vờn bay phảng phất cho dù tháng năm
Tổ tiên một nén nhang trầm
Nối dòng máu đỏ âm thầm thiết tha
Cũng như một số vật dụng khác, tưởng chừng rất nhỏ bé, nhưng không thể thiếu được trong đời sống của chúng ta. Hương trầm cũng là một thứ nằm trong số đó, nhất là trong đời sống tâm linh của người dân Việt nam dù đang sống tại quê hương hay ở nơi xa sứ trên đất khách quê người.
Nén hương biểu tượng cho tấm lòng thành kính của những người đang sống với thế hệ đã khuất. Tượng trưng cho sự biết ơn của thế hệ trẻ với thế hệ cha anh đi trước. Nén hương là sợi dây liên lạc với thế giới tâm linh, nén hương được thắp lên với lòng thành kính tổ tiên. Hương thơm ngan ngát, nhè nhẹ lan toả, khói hương cuộn bay lên mờ ảo. Nhưng đằng sau đó là bao nỗi nhọc nhằn, vất vả, là sự yêu nghề và là cái tâm của những người làm nghề hương.
Làm hương trầm ở làng Thủy Xuân
Hương trầm cán xong phải được phơi dưới nắng để cây hương khô và chắc
Chuyện thắp hương trên bàn thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp, lễ Tết. Ngày cuối năm đi mua sắm các thứ chuẩn bị cho Tết, không ai không mua vài nén hương về thắp cho ông bà, tổ tiên mình. Nén hương được thắp lên thì mọi người cảm thấy ấm lòng. Nén hương lúc này không còn là thứ hàng bình thường, mà nó đã trở thành một sản phẩm tinh thần không thể thiếu của người dân Việt. Cùng với những phong tục truyền thống khác, nén hương đã góp phần tạo nên và bảo tồn giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Kết
Không phải tự nhiên nghề làm hương ở Huế phát triển và tồn tại lâu dài đến vậy. Mà vì, Huế là xứ của tâm linh, xứ được mệnh danh là thủ đô Phật giáo Việt Nam - nơi có một số lượng chùa chiền nhiều nhất so với bất cứ một địa phương lớn nhỏ nào khác trên lãnh thổ Việt Nam. Từng một thời là kinh đô của nhiều đời vua chúa nhà Nguyễn.

Bởi thế, nếu có dịp đến Huế, bạn có đi đến đâu đi nữa cũng dễ dàng bắt gặp cảnh các thợ làm hương đang làm việc. Có lẽ nó đã trở thành một nét văn hóa cho Huế rồi.

Hương trầm xứ Huế đã đi vào từng phố phường, ngõ xóm, để rồi thơm ngát nơi nhà thờ, từ đường, trang nghiêm trong những nghi lễ tín ngưỡng của dân tộc, và thắt chặt hơn sợi dây nguồn cội của quê nhà.

Hương trầm Thủy Xuân nét đẹp của cố đô Huế
Hương trầm Thủy Xuân nét đẹp của cố đô Huế
Hương trầm Thủy Xuân nét đẹp của cố đô Huế
                                                                                                           Đức Cường – Đ.Dương